0918415277 0918255499
Trang chủ>Lĩnh vực tố tụng>Các vụ việc, vụ án Đất đai

BẢN LUẬN CỨ Bảo vệ cho bị đơn

15/02/2014 9818

Hinh 3 tham phan

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lâp- Tự do – Hạnh phúc

BẢN LUẬN CỨ

Bảo vệ cho bị đơn là ông Nguyễn Đông A và bà Nguyễn Thị B trong vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ tại phiên Tòa Phúc thẩm

Kính thưa:  – Hội đồng xét xử

                       – Thưa vị Đại diện VKSND tỉnh H

                       –  Và vị Luật sư đồng nghiệp

Tôi là luật sư Trần Văn N thuộc Văn phòng Luật sư P T Đ – Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng, theo yêu của bị đơn là Nguyễn Đông A và bà Nguyễn Thị B và được sự chấp thuận của TAND tỉnh L Đ   tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trong vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” với Nguyên đơn là Nguyễn Thị C tại giai đoạn  phúc thẩm.

Kính thưa Hội đồng xét xử:

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay tôi  xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyễn Đông A và bà Nguyễn Thị  B là bị đơn trong vụ kiện dân về tranh chấp quyền sử dụng đất như sau:

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ T đã xử chấp nhận yêu cầu thay đổi nội dung khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị C tại phiên Tòa sơ thẩm là đồng ý tiếp tục chuyển nhượng diện tích đất tranh chấp là 13.790m2 (theo đo đạt của Trung tâm thẩm định giá) buộc ông Nguyễn Đông A và bà Nguyễn Thị B trả cho nguyên đơn là bà Nguyễn Thị C 1.237.174.616 đồng.

Không đồng ý với toàn bộ nội dung của bản án sơ thẩm nói trên bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã làm đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc Tòa án nhân dân tỉnh L Đ giải quyết lại vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ, qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay quan điểm của luật sư như sau:

I. Về Nội dung vụ án

Thứ nhất: Phía nguyên đơn bà Nguyễn Thị C khai rằng vào năm 1974 bà mua một lô đất có diện tích khỏang 02 ha toại lạc tại km số 5 có giấy tờ chế độ củ và có chứng nhận của địa phương lúc bấy giờ. Đến ngày 16/5/1993 chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông Nguyễn Đông A và bà Nguyễn Thị B với giá 7,5 chỉ vàng.

Cũng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay người đại diện phía nguyên đơn đã thừa nhận là bà Nguyễn Thị C đã chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Đông A và bà Nguyễn Thị B  toàn bộ diện tích đất mà nguyên đơn đã mua vào năm 1974 là 20.000 m2 .

Tại giấy đoạn mãi ngày 04/01/1974 bà đã mua lại của ông Vũ Xuân D (do ông Trần sĩ  E đại diện đứng ra bán) là 48.480m2, chứ không phải là 20.000m2  như bà khai, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa  làm rõ:

– Tại sao có sự chênh lệch này, từ đó xác định vị trí của 13.790m2 đất tranh chấp này có đúng vị trí diện tích 48.480m2 của nguyên đơn mua vào năm 1974 không? Vì khi gia đình bị đơn bắt đấu sử dụng năm 1987, thì toàn bộ thửa đất đang tranh chấp nay là đất hoang không có người sử dụng.

Thứ hai, Cần phải xác định rõ ông Hà Ngọc H người có đủ thẩm quyền đứng ra giao dịch mua bán đất với ông Nguyễn Đông Tây vào ngày 16/5/1993 không? Vì tại giấy đoạn mãi ngày 04/01/1974 thì người đứng ra mua đất của ông Vũ Xuân D không phải là ông Hà Ngọc Hứa mà ông Trần Văn Hùng. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét vấn đề này.

Thư ba, tại giấy cam kết giữa ông Hà Ngọc H với ông Nguyễn Đông A là 7,5 chỉ vàng cho diện tích là 15.000 m2 chứ không phải 13.790m2, nhưng khi xem xét thì áp dụng tỷ lệ 73,4% (của 5,5 /7,5) là không chính xác và Tòa cấp sơ thẩm cũng không xem xét việc cam kết này giữa hai bên là với mục đích thối công khai phá hoặc thành quả lao động như theo lời khai của nguyên đơn tại biên bản lời khai vào lúc 08 giờ 00 ngày 23/8/2007 mà xác định là mua bán đất là chưa phù hợp với tình tiết vụ án.

Thứ tư, Cần xem xét giá trị mà trung tâm thẩm định giá Thương Tín thẩm định  toàn bộ 13.790m2 là 1.685.524.000 đồng, đây là giá trị tăng lên là do quá trình gia đình ông Nguyễn Đông A và bà Nguyễn Thị B khai phá, tu tạo và sử dụng liên tục đồng thời sản xuất những cây công nghiệp có giá trị cao từ năm 1987 đến nay chứ không chỉ có giá trị tự nhiên của đất.

Căn cứ hồ sơ, tài liệu có trong vụ án cũng như qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa phúc thẩm hôm này đồng thời qua phân tích của Luật sư nêu trên cho thấy bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ T chưa xem xét đầy đỉ nội dung, tài liệu chứng để làm rõ vụ án một cách khách quan, đầy đủ và toàn diện đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông Nguyễn Đông A và bà Nguyễn thị B. kính mong Hội đồng xét xử phúc thẩm quan tâm xem xét.

II. Về Tố tụng 

Thứ nhất, Theo đơn khởi kiện thì nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16/5/1993, sau đó tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện là chấp nhận tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất 13.790m2 với giá trị là  là 1.685.524.000 đồng quá trình thay đổi này đã làm thay đổi toàn bộ khoản tiền tạm ứng án phí trước đây của nguyên đơn là 50.000 đồng, nhưng tòa án cấp sơ thẩm cũng không xem xét mà vẫn tiếp tục tiến hành xét xử là không đảm bảo của pháp luật quy định về nộp tiền tạm ứng án phí. Hơn nữa tòa án cấp sơ thẩm xác định tranh chấp pháp luật của vụ án này là tranh chấp quyền sử dụng đất là không chính xác.

Thứ hai,căn cứ vào Nghị quyết số 02/NQ – HĐTP  ngày 12/05/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án cấp sơ thẩm của Bộ Luật tố tụng dân sự”

Tại tiểu mục 1.1 Mục I quy định “Đối với cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự,  thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ ”.

Tại điểm a tiểu mục 1.5 Mục I quy định “ Đối với trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 Mục I này, thì nguyên đơn trong vụ án chính là người khởi kiện”.

Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ T xác định nguyên đơn là bà Nguyễn Thị C, nhưng trong hồ sơ vụ án thì bà C hoàn toàn không có đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 161 BLTTDS và hướng dẫn của Nghị quyết số 02/NQ – HĐTP  ngày 12/05/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án cấp sơ thẩm của Bộ Luật Tố tụng dân sự” nêu trên.

Như vậy, theo quy định của pháp luật nêu trên thì bà Nguyễn Thị C với tư cách là nguyên đơn chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật và ông Nguyễn Anh T người ủy quyền đứng đơn khởi kiện là vi phạm nghiêm trọng pháp luật không đủ điều kiện khởi kiên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn thụ lý vụ án và đưa vụ án ra xét xử.

Thứ ba, về thủ tục ủy quyền giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị C với bà Nguyễn Thị Kim L cũng như giữa ông Nguyễn Đông A,  bà Nguyễn Thị B với ông Nguyễn Bảo S đều không có văn bản ủy quyền, không có chứng thực hoặc công chứng mà chỉ có bản lấy lời khai của Tòa án với đương sự và tại phiên tòa cũng không có bà C, ông A và bà B tham dự trực tiếp là chưa đủ cơ sớ pháp lý để bà Nguyễn Thị Kim L và Nguyễn Bảo S  tham gia phiên tòa sơ thẩm theo ủy quyền đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật.

Căn cứ hồ sơ, tài liệu có trong vụ án cũng như qua thẩm vấn tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay đồng thời qua phân tích của Luật sư nêu trên cho thấy Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ T đã vi phạm nghiệm trọng về tố tụng. Kính mong HĐ xét lưu tâm xem xét.

Kính thưa Hội đồng xét xử với tư cách và trách nhiệm của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay cũng như qua phần phân tích về nội dung vụ án và về tố tụng của bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ T nêu trên. Căn cứ Điều 263 BLTTDS quy định phạm vi xét xử phúc thẩm, kính mong Hội đồng xét lại toàn bộ nội dung và về tố tụng của Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2011/DS – ST ngày 03/06/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ T.

Chân thành cảm ơn quý vị đã lắng nghe!

Mọi chi tiết xin liên hệ:

  1. Văn phòng luật sư Tín Phát

Trụ sở chính: 131 Yersin, phường 9, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng

Điện thoại: 0918.415.277 – 0987.332.188 – 0918.255.499

Website: Luatsulamdong.com

Gmail: vplstinphat@gmail.com

  1. Văn phòng Tư vấn và Hỗ trợ Doanh nghiệp

Địa chỉ: Sảnh 1, Tầng trệt Trung tâm Hành chính Tỉnh, số 36 Trần Phú, Phường 4, Tp. Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng

Điện thoại: 0918.415.277 – 0987.332.188 – 0918.255.499

Website: luatsulamdong.com

Email: vanphongtuvandoanhnghiepld@gmail.com

 

Tư vấn luật, đầu tư, pháp lý, tranh chấp đất đai, thành lập công ty tại Đà Lạt Lâm đồng
  • + Khi nào người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?

    Theo Khoản 1 Điều 36 Bộ Luật Lao động 2019 thì người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong các trường hợp sau: Trường

  • + Vụ án “Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”

    Án lệ số 14/2017/AL : Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định

  • + Vụ án Tranh chấp về hợp đồng tín dụng

    Án lệ số 08: Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số

  • + Vụ án Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa

    Án lệ số 09: Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số

  • + Vụ án Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

    Án lệ số 04: Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số

  • + Vụ án Tranh chấp đòi lại tài sản

    Án lệ số 2: Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số

  • + Vụ án Khiếu kiện Quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

    Án lệ số 10: Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số

  • + VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI TẠI HÀ NỘI

    ÁN LỆ SỐ 01: Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số

  • + Vụ án “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng nhà”

    Án lệ số 07: Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số

  • + Vụ án: “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”

    Án lệ số 28/2019/AL: Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 22 tháng 8 năm 2019 và được công bố theo Quyết định số

  • Tư vấn luật, đầu tư, pháp lý, tranh chấp đất đai, thành lập công ty tại Đà Lạt Lâm đồng
    Chat Zalo Gọi ngay